June 22, 2013

Dạy Con Làm Giàu Tập 1

STTDạy Con Làm Giàu Tập 1
1Chương 01
Tác giả: Robert Kiyosaki * Người đọc: Quang Thanh
2Chương 02
Tác giả:  Robert Kiyosaki * Người Đọc: Quang Thanh
3Chương 03
Tác giả: Robert Kiyosaki * Người đọc: Quang Thanh
4Chương 04
Tác giả: Robert Kiyosaki * Người đọc: Quang Thanh
5Chương 05
Tác giả: Robert Kiyosaki * Người đọc: Quang Thanh
6Chương 06
Tác giả: Robert Kiyosaki * Người đọc: Quang Thanh
7Chương 07
Tác giả: Robert Kiyosaki * Người đọc: Quang Thanh
8Chương 08
Tác giả: Robert Kiyosaki * Người đọc: Quang Thanh
9Chương 08(TT)
Tác giả: Robert Kiyosaki * Người đọc: Quang Thanh
10Chương 09
Tác giả: Robert Kiyosaki * Người đọc: Quang Thanh
11Chương 10
Tác giả: Robert Kiyosaki * Người đọc: Quang Thanh
12Phần Kết
Tác giả: Robert Kiyosaki * Người đọc: Quang Thanh

Đắc Nhân Tâm

STTĐắc Nhân Tâm
1Lời giới thiệu
Tác Giả: Dale Carnegie *  Dịch Giả: Nguyễn Hiến Lê * Người Đọc: Ái Hòa-Xuân Khoa
2Quyển sách của mọi thời đại
Tác Giả: Dale Carnegie *  Dịch Giả: Nguyễn Hiến Lê * Người Đọc: Ái Hòa-Xuân Khoa
3 Lời tác giả
Tác Giả: Dale Carnegie *  Dịch Giả: Nguyễn Hiến Lê * Người Đọc: Ái Hòa-Xuân Khoa
4Để quyển sách này mang đến kết quả tốt nhất
Tác Giả: Dale Carnegie *  Dịch Giả: Nguyễn Hiến Lê * Người Đọc: Ái Hòa-Xuân Khoa
5Chương 1: “Muốn lấy mật thì đừng phá tổ ong”
Tác Giả: Dale Carnegie *  Dịch Giả: Nguyễn Hiến Lê * Người Đọc: Ái Hòa-Xuân Khoa
6Chương 2: Bí mật lớn nhất trong phép ứng xử
Tác Giả: Dale Carnegie *  Dịch Giả: Nguyễn Hiến Lê * Người Đọc: Ái Hòa-Xuân Khoa
7Chương 3: Ai làm được điều dưới đây, người đó sẽ có cả thế giới
Tác Giả: Dale Carnegie *  Dịch Giả: Nguyễn Hiến Lê * Người Đọc: Ái Hòa-Xuân Khoa
8Chương 4: Thành thật quan tâm đến người khác
Tác Giả: Dale Carnegie *  Dịch Giả: Nguyễn Hiến Lê * Người Đọc: Ái Hòa-Xuân Khoa
9Chương 5: Cách đơn giản để tạo ấn tượng tốt đẹp
Tác Giả: Dale Carnegie *  Dịch Giả: Nguyễn Hiến Lê * Người Đọc: Ái Hòa-Xuân Khoa
10Chương 6: Để mọi việc luôn được suôn sẻ
Tác Giả: Dale Carnegie *  Dịch Giả: Nguyễn Hiến Lê * Người Đọc: Ái Hòa-Xuân Khoa
11Chương 7: Để trở thành người giao tiếp khéo léo
giảng tại chùa Hoằng Pháp
12Chương 8: Thu hút sự quan tâm của người khác
Tác Giả: Dale Carnegie *  Dịch Giả: Nguyễn Hiến Lê * Người Đọc: Ái Hòa-Xuân Khoa
13Chương 9: Để người khác yêu thích bạn ngay lập tức
Tác Giả: Dale Carnegie *  Dịch Giả: Nguyễn Hiến Lê * Người Đọc: Ái Hòa-Xuân Khoa
14Chương 10: Không tranh cãi!
Tác Giả: Dale Carnegie *  Dịch Giả: Nguyễn Hiến Lê * Người Đọc: Ái Hòa-Xuân Khoa
15Chương 11: Tôn trọng ý kiến người khác
Tác Giả: Dale Carnegie *  Dịch Giả: Nguyễn Hiến Lê * Người Đọc: Ái Hòa-Xuân Khoa
16Chương 12: Thẳng thắn thừa nhận sai lầm của mình
Tác Giả: Dale Carnegie *  Dịch Giả: Nguyễn Hiến Lê * Người Đọc: Ái Hòa-Xuân Khoa
17Chương 13: Mật ngọt trong giao tiếp
Tác Giả: Dale Carnegie *  Dịch Giả: Nguyễn Hiến Lê * Người Đọc: Ái Hòa-Xuân Khoa
18Chương 14: Bí quyết của Socrates
Tác Giả: Dale Carnegie *  Dịch Giả: Nguyễn Hiến Lê * Người Đọc: Ái Hòa-Xuân Khoa
19Chương 15: Khôn ngoan khi gặp đối đấu
Tác Giả: Dale Carnegie *  Dịch Giả: Nguyễn Hiến Lê * Người Đọc: Ái Hòa-Xuân Khoa
20Chương 16: Để nhận được sự hợp tác cao nhất
Tác Giả: Dale Carnegie *  Dịch Giả: Nguyễn Hiến Lê * Người Đọc: Ái Hòa-Xuân Khoa
21Chương 17: Đặt mình vào hoàn cảnh người khác
Tác Giả: Dale Carnegie *  Dịch Giả: Nguyễn Hiến Lê * Người Đọc: Ái Hòa-Xuân Khoa
22Chương 18: Điều mọi người mong muốn
Tác Giả: Dale Carnegie *  Dịch Giả: Nguyễn Hiến Lê * Người Đọc: Ái Hòa-Xuân Khoa
23Chương 19: Khơi gợi sự cao thượng
Tác Giả: Dale Carnegie *  Dịch Giả: Nguyễn Hiến Lê * Người Đọc: Ái Hòa-Xuân Khoa
24Chương 20: Trình bày vấn đề một cách sinh động
Tác Giả: Dale Carnegie *  Dịch Giả: Nguyễn Hiến Lê * Người Đọc: Ái Hòa-Xuân Khoa
25Chương 21: Khơi gợi tinh thần vượt lên thử thách
Tác Giả: Dale Carnegie *  Dịch Giả: Nguyễn Hiến Lê * Người Đọc: Ái Hòa-Xuân Khoa
26Chương 22: Trước khi phê bình, hãy khen ngợi
Tác Giả: Dale Carnegie *  Dịch Giả: Nguyễn Hiến Lê * Người Đọc: Ái Hòa-Xuân Khoa
27Chương 23: Phê bình một cách gián tiếp
Tác Giả: Dale Carnegie *  Dịch Giả: Nguyễn Hiến Lê * Người Đọc: Ái Hòa-Xuân Khoa
28Chương 24: Nhìn nhận sai lầm của bản thân trước khi phê phán người khác
Tác Giả: Dale Carnegie *  Dịch Giả: Nguyễn Hiến Lê * Người Đọc: Ái Hòa-Xuân Khoa
29Chương 25: Gợi ý thay vì ra lệnh
Tác Giả: Dale Carnegie *  Dịch Giả: Nguyễn Hiến Lê * Người Đọc: Ái Hòa-Xuân Khoa
30Chương 26: Giữ thể diện cho người khác
Tác Giả: Dale Carnegie *  Dịch Giả: Nguyễn Hiến Lê * Người Đọc: Ái Hòa-Xuân Khoa
31Chương 27: Khuyến khích người khác
Tác Giả: Dale Carnegie *  Dịch Giả: Nguyễn Hiến Lê * Người Đọc: Ái Hòa-Xuân Khoa
32Chương 28: Cho người khác niềm tự hào
Tác Giả: Dale Carnegie *  Dịch Giả: Nguyễn Hiến Lê * Người Đọc: Ái Hòa-Xuân Khoa
33Chương 29: Mở đường cho người khác sửa chữa lỗi lầm
Tác Giả: Dale Carnegie *  Dịch Giả: Nguyễn Hiến Lê * Người Đọc: Ái Hòa-Xuân Khoa
34Chương 30: Tôn vinh người khác
Tác Giả: Dale Carnegie *  Dịch Giả: Nguyễn Hiến Lê * Người Đọc: Ái Hòa-Xuân Khoa

101 TÌNH HUỐNG NHÂN SỰ NAN GIẢI


STT101 Tình Huống Nhân Sự Nan Giải
1Phần Mở Đầu
Tác Giả: Paul Falcone * Dịch Giả: Nguyễn Đình Viễn * Người đọc: Trần Huỳnh
2Tình Huống 01-07
Tác Giả: Paul Falcone * Dịch Giả: Nguyễn Đình Viễn * Người đọc: Trần Huỳnh
3Tình Huống 08-14
Tác Giả: Paul Falcone * Dịch Giả: Nguyễn Đình Viễn * Người đọc: Trần Huỳnhuỳnh
4Tình Huống 15-21
Tác Giả: Paul Falcone * Dịch Giả: Nguyễn Đình Viễn * Người đọc: Trần Huỳnh
5Tình Huống 22-28
Tác Giả: Paul Falcone * Dịch Giả: Nguyễn Đình Viễn * Người đọc: Trần Huỳnh
6Tình Huống 29-34
Tác Giả: Paul Falcone * Dịch Giả: Nguyễn Đình Viễn * Người đọc: Trần Huỳnh
7Tình Huống 35-40
Tác Giả: Paul Falcone * Dịch Giả: Nguyễn Đình Viễn * Người đọc: Trần Huỳnh
8Tình Huống 41-46
Tác Giả: Paul Falcone * Dịch Giả: Nguyễn Đình Viễn * Người đọc: Trần Huỳnh
9Tình Huống 47-53
Tác Giả: Paul Falcone * Dịch Giả: Nguyễn Đình Viễn * Người đọc: Trần Huỳnh
10Tình Huống 54-59
Tác Giả: Paul Falcone * Dịch Giả: Nguyễn Đình Viễn * Người đọc: Trần Huỳnh
11Tình Huống 60-68
Tác Giả: Paul Falcone * Dịch Giả: Nguyễn Đình Viễn * Người đọc: Trần Huỳnh
12Tình Huống 69-76
Tác Giả: Paul Falcone * Dịch Giả: Nguyễn Đình Viễn * Người đọc: Trần Huỳnh
13Tình Huống77-82
Tác Giả: Paul Falcone * Dịch Giả: Nguyễn Đình Viễn * Người đọc: Trần Huỳnh
14Tình Huống 83-88
Tác Giả: Paul Falcone * Dịch Giả: Nguyễn Đình Viễn * Người đọc: Trần Huỳnh
15Tình Huống 89-101
Tác Giả: Paul Falcone * Dịch Giả: Nguyễn Đình Viễn * Người đọc: Trần Huỳnh

Phật pháp nhiệm mầu kỳ 17 - Nghệ sĩ Kim Cương


Phật Pháp Nhiệm Mầu - Kỳ 29 - Cô Nguyễn Hướng Dương


Phật pháp nhiệm mầu kỳ 16 - Phật tử Tịnh Tín


Tìm về Thánh Tích Kushinagar (Câu-Thi-Na)

Gần 50 năm thuyết pháp độ sanh, đức Thế Tôn đã đem ánh sáng giác ngộ hướng đạo quần sanh, đưa những người hữu duyên đến bến bờ giải thoát. Vào năm cuối cùng của cuộc đời vĩ đại ấy, tại điện thờ Capala, thành Vaishali (Tỳ-xá-ly), đức Phật đã tuyên bố với Anan cùng đại chúng Tỳ kheo ba tháng sau sẽ nhập Niết-bàn tại rừng cây Ta La thuộc thành Kushinagar (Câu-thi-na).



Khu thánh tích Kushinagar (Câu-thi-na) – nơi đức Phật nhập Niết bàn


Nơi đức Phật nhập Niết Bàn, Kushinagar đã trở thành một trong bốn thánh tích thiêng liêng nhất của Phật giáo (Lumbini, Bodhgaya, Sarnath và Kushinagar). Khi hành hương, chiêm bái bốn thánh tích (Tứ động tâm) trên miền đất Phật thiêng liêng, có lẽ Kushinagar là thánh tích để lại trong người hành hương những ấn tượng bùi ngùi và xúc động nhất. Nếu như Lumbini (Lâm-tỳ-ni), nơi nhơn thiên và muôn vật hoan ca chào đón sự đản sanh của đấng Từ phụ, thì Kushinagar (Câu-thi-na) là nơi trời người và muôn vật rơi lệ u buồn, tiễn biệt đấng Thiên nhơn sư. Nếu Bodhgaya (Bồ-đề-đạo-tràng) là đạo tràng thiêng liêng, nơi bừng tỏa ánh sáng giác ngộ của đức Phật Thích Ca, thì Kushinagar là nơi ánh đạo huy hoàng của Ngài đã tắt lịm. Nếu Sarnath (vườn Lộc Uyển) là thánh tích thiêng liêng, nơi khơi nguồn của dòng pháp giải thoát, thì Kushinagar là nơi khô cạn chấm dứt suối nguồn giải thoát đang tuôn chảy từ kim khẩu của bậc Đạo sư. Bởi vậy, những người con Phật chúng ta, mấy ai tránh khỏi cảm giác xúc động, u buồn khi chiêm bái, đảnh lễ thánh tích này.

Thánh tích Kushinagar tọa lạc tại thành Kushinagar, còn có tên gọi Kusinagari hay Kusigràma là một trong hai kinh đô của bộ tộc Mallas (Mạt La). Thời cổ tiểu quốc này được chia làm hai khu vực tự trị và đóng đô tại hai thị trấn riêng biệt là Kusinàra và Pàvà. Ngày nay, Kushinagar thuộc tiểu bang Utta Pradhesh, cách ga xe lửa quận Gorakhpur khoảng 50 km. Nhìn vào bản đồ Ấn Độ, chúng ta có thể xác định vị trí của Kushinagar tọa lạc gần như trung tâm của những thánh tích khác như: Lumbini (Lâm-tỳ-ni thuộc nước Nepal), Vaishali (Tỳ-xá-li), Sarnath (vườn Lộc-uyễn), v.v… Căn cứ theo đường chim bay, Kushinagar cách cách Lumbini khoảng 100 km, cách Vaishali khoảng 150 km, cách Sarnath khoảng 200 km và cách Bodhgaya khoảng 300 km.

Thành Kushinagar, từ thời đức Phật cho đến hàng chục thế kỉ về sau, vẫn là một nơi xa xôi, hẻo lánh, dân cư thưa thớt. Kushinagar không có những vương thành lộng lẫy, những trung tâm thương mại, phố xá phồn hoa như thành Savatthi (Xá-vệ), thành Rajagaha (Vương-xá), thành Baranasi (Ba-la-nại)… Tuy nhiên, vào thời quá khứ xa xưa, Kushinagar là một vương thành giàu sang cùng tột, dân cư đông đúc, nhưng trải qua sự tàn phá của thời gian, của vô thường hủy diệt, đến thời của đức Phật Thích Ca cũng như nhiều thế kỷ về sau, thành Kushinagar chỉ là những rừng cây Ta La xa vắng, dân cư thưa thớt… điều đó chúng ta có thể biết được qua câu chuyện đối thoại giữa đức Phật và tôn giả Anan: Khi nghe đức Phật tuyên bố ba tháng sau sẽ nhập Niết-bàn tại thành Kushinagar, tôn giả Anan đã vội thỉnh đức Phật trụ thế: “Bạch Thế Tôn, còn có những thành lớn khác. Một là Chiêm-bà, hai là Xá-vệ, ba là Bệ-xá-ly, bốn là Vương xá, năm là Ba-la-nại, sáu là Ca-tỳ-la-vệ. Sao Thế Tôn không nhập Niết-bàn ở các nơi ấy, mà quyết định tại thành bằng đất nhỏ hẹp này, một thành nhỏ hẹp nhất trong các thành? Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo: Này A-nan, ngươi chớ nói rằng đây là thành đất nhỏ hẹp, là thành nhỏ nhất trong các thành. Vì sao? Vì thuở quá khứ, thành Câu-thi-na này tên là Câu-thi vương thành, giàu có cùng tột, dân chúng đông đúc.

Một góc Thành Kushinagar (Vương Xá) ngày nay

Đường vào khu thánh tích Kushinagar (Cau-thi-na)

Như vậy, trong thời quá khứ xa xưa Kushinagar là một vương thành phồn hoa, dân cư đông đúc và lúc đức Phật nhập Niết-bàn thì thành này chỉ là một thành nhỏ hoang vắng, dân cư thưa thớt, với những cánh rừng Ta La xanh ngát.

Sau khi đức Phật nhập Niết-bàn, kim thân của Ngài được hoả tang theo nghi thức tang lễ của một vị Chuyển luân Thánh vương. Sau lễ hoả táng, để tránh sự xung đột tranh giành xá lợi của đức Phật, bộ tộc Malla tại Kushinagar đã đồng ý chia xá lợi Ngài làm tám phần đều nhau cho tám vị quốc vương trong tám nước xây tháp cúng dường. Bộ tộc Malla cũng xây một bảo tháp tại nơi lễ Trà tỳ của đức Phật để phụng thờ tro than lúc hoả táng còn lại. Ngôi Tháp này hiện nay vẫn còn.

Đến với thánh tích Kushinagar, ngày nay, chúng ta sẽ được chiêm bái hai nơi thiêng liêng nhất: nơi đức Phật nhập Niết-bàn (gồm tháp Niết-bàn, chùa Niết-bàn…) và nơi diễn ra lễ Trà tỳ kim thân của đức Thế Tôn.
Nơi đức Phật nhập Niết-bàn: Các sử liệu về Kushinagar chưa xác định rõ sau khi đức Phật nhập Niết-bàn, nơi đức Phật nhập Niết-bàn có những gì. Ngôi tháp Niết Bàn, chùa Niết Bàn và những phế tích còn lại mà chúng ta thấy ngày nay được các nhà khảo cổ xác định xây dựng từ thời vua Asoka (vua A Dục, thế kỉ thứ 3 trước Tây lịch) trở về sau.

Tháp Niết Bàn (Mahaparinirvana Stupa):

Ngôi tháp Niết Bàn to lớn mà chúng ta thấy hiện nay có chiều cao khoảng 45 mét, đường kính khoảng 10 mét. Đấy là một ngôi tháp có màu trắng, xây kín xung quanh, không có cửa ra vào. Tháp được xây trên một nền gạch cao khoảng 2,7 mét; tháp có hình tròn trụ, với mái hình vòm tròn, phía trên vòm tròn ấy được xây một khối hình trụ nhọn dần lên tận đỉnh, hình trụ ấy gồm ba tầng, cao khoảng 5,5 mét.



Tháp Niết Bàn nằm phía trước chùa Niết bàn

Tác giả bên Tháp Niết Bàn tại Kushinagar 

Nguyên thuỷ ngôi bảo tháp này được các nhà khảo cổ cho rằng, nó được xây dựng bởi vua Asoka vào thế kỉ thứ 3 trước Tây lịch. Vua Asoka, sau khi từ bỏ đời sống một bạo chúa hung tàn, ông đã quay về với Phật giáo và dùng chánh pháp để trị dân. Để cho dân chúng toàn cõi Ấn Độ được thấm nhuần công đức, vua Asoka đã thu thập xá lợi của đức Phật trong tám ngôi tháp của tám vị quốc vương thời xưa, chia đều ra tám vạn bốn ngàn phần và xây tám vạn bốn ngàn ngôi tháp trên toàn cõi Ấn để dân chúng được chiêm bái, cúng dường, tăng trưởng công đức. Bảo tháp Niết Bàn là một trong những ngôi tháp ấy.

Tháp Niết Bàn được xây tại thánh tích này để tôn thờ xá lợi của đức Phật, đồng thời để kỉ niệm nơi đức Phật đã xả bỏ báo thân sanh diệt, an trú vào Niết-bàn bất diệt. Gần mười thế kỉ trôi qua kể từ thời vua Asoka, đến thế kỉ thứ bảy, ngài Huyền Trang đến chiêm bái thánh tích này thì bảo tháp Niết Bàn vẫn còn và ngài đã ghi chép trong cuốn kí sự của mình: “Về phía tây bắc của thành này khoảng 3 đến bốn dặm, băng qua dòng sông Ajitavati (A-tỳ-ba-phạt-để), không xa về phía tây của bờ sông này, chúng ta đến một rừng cây Ta La. Cây Ta La giống như cây Huk, vỏ cây màu trắng xanh, lá cây lóng lánh và trơn dịu. Chổ này có bốn cây thật cao, đây là nơi đức Như Lai đã nhập Niết-bàn, tại đây có tinh xá bằng gạch rất lớn. Trong tinh xá này có một tượng đức Phật nhập Niết-bàn, Ngài nằm quay đầu về hướng bắc như đang ngủ. Bên cạnh tinh xá này là bảo tháp do vua Asoka xây dựng, mặc dù đã hư sụp, nhưng cũng còn cao gần 60 mét (200 feet)…”

Lịch sử văn hoá thế giới nói chung hay của Phật giáo nói riêng luôn có những trang sử bi thương về sự tàn phá kinh khiếp của giặc Hồi cực đoan và tàn ác. Vào những thế kỉ 12, 13, các thánh tích Phật giáo bị giặc Hồi đố kị và đốt phá hoang tàn, nơi đức Phật Niết-bàn cũng như bảo tháp Niết Bàn đã bị thiêu rụi và đập phá, trở thành những đống gạch đổ nát, hoang tàn. Thánh tích Kushinagar nói chung và bảo tháp Niết Bàn nói riêng hầu như đã bị lãng quên không người nhắc đến. Gần 600 năm sau, thế kỉ 19, nhà khảo cổ học nổi tiếng người Anh tên là Cunningham, người có công lớn trong cuộc khảo cổ và hồi phục lại các thánh tích Phật giáo để giới thiệu mọi người trên thế giới. Ông đã căn cứ vào cuốn Đại Đường Tây Vực Ký của ngài Huyền Trang và tiến hành khảo cổ các thánh tích thiêng liêng của Phật giáo. Một công việc rất khó khăn và vất vả, ông đã huy động những người cộng sự của mình âm thầm làm việc giống như một vị Bồ-tát vô danh trong công cuộc đóng góp xây dựng vào sự phục sinh của Phật giáo tại Ấn Độ. Dưới sự hổ trợ đắc lực của người phụ tá của ông, nhà khảo cổ Carllleyle, các di tích tại nơi đức Phật nhập Niết-bàn gồm các nền tháp, chùa viện, tượng Phật… đã được phát hiện và bảo vệ cẩn thận. Với sự phát hiện khám phá đầy ý nghĩa ấy, nền tháp Niết Bàn đã được xác định. Đến năm 1927, với sự đồng ý của chính phủ Ấn Độ, cộng đồng Phật tử Mianma đã phát tâm kiến tạo ngôi tháp Niết Bàn ngay trên nền móng cũ của bảo tháp do vua Asoka xây dựng ngày xưa. Gần 50 năm sau, vào năm 1972, các Phật tử Mianma lại phát tâm trùng tu bảo tháp này một lần nữa, và đấy chính là bảo tháp Niết Bàn hùng vĩ mà chúng ta thấy ngày nay.

Chùa Niết Bàn (Mahaparinirvana temple):

Bước vào thánh tích Kushinagar nơi đức Phật nhập Niết-bàn, hình ảnh to lớn đầu tiên chúng ta diện kiến được là tháp đại Niết Bàn, kế đó là chùa Niết Bàn. Chùa Niết Bàn mà ta thấy ngày nay được xây lại trên nền bảo tháp Niết Bàn xưa kia. Chùa Niết Bàn có một kiến trúc rất riêng so với các loại kiến trúc chùa tháp khác mà chúng ta từng thấy. Ngôi chùa chiều cao khoảng 45 mét, đường kính khoảng 10 mét, mái chùa là một hình cong nhọn lên ở giữa, từ xa nhìn đến giống như một hình lăng trụ to lớn, có bốn cửa sổ hình tròn cao lớn gần trên mái trông ra bốn hướng. Trước hành lang chùa có bốn trụ cột sơn màu đỏ rất lớn, chùa được xây dựng để thờ tượng Phật nhập Niết-bàn.

Xin nói thêm về nguyên thuỷ của ngôi chùa được xây vào thời điểm nào. Vào thế kỉ thứ 7, ngài Huyền Trang đến chiêm bái Kushinagar đã đề cập trong Đại đường Tây vực ký như sau: “Chổ này có bốn cây (Ta La) thật cao, đây là nơi đức Như Lai đã nhập Niết-bàn, tại đây có tinh xá bằng gạch rất lớn. Trong tinh xá này có một tượng đức Phật nhập Niết-bàn, Ngài nằm quay đầu về hướng bắc như đang ngủ. Bên cạnh tinh xá này là bảo tháp do vua Asoka xây dựng, mặc dù đã hư sụp, nhưng cũng còn cao gần 60 mét (200 feet). Phía trước tinh xá là một trụ đá ghi chép về sự Niết-bàn của đức Như Lai. Mặc dù các ghi chép vẫn còn, nhưng không thấy đề cập ngày, tháng hay năm…”

Ngôi tinh xá ngài Huyền Trang mô tả chính là ngôi chùa Niết Bàn. Ngôi chùa ấy đã đốt cháy và đập phá hoang tàn vào thế kỉ 12, 13 bởi những đội quân hung tà Hồi giáo đến từ Trung đông. Mãi đến năm 1876, trợ lý của ngài Cunningham, nhà khảo cổ Carlleyle đã xác định nền móng của ngôi chùa Niết Bàn ngày xưa, và đến năm 1956 ngôi chùa Niết Bàn đã được trùng kiến lại, đó chính là ngôi chùa Niết Bàn mà ta thấy ngày nay.

Tượng đức Phật nhập Niết Bàn: một trong những bảo vật ý nghĩa nhất tại thánh tích này là tượng đức Phật nhập Niết Bàn. Trong ngôi chùa Niết Bàn chỉ thờ duy nhất pho tượng này. Đây là một trong những kiệt tác về nghệ thuật tranh tượng Phật giáo vào thời đại Kumargupta (413-455), một triều đại đã đến đỉnh cao của nghệ thuật sáng tác tranh tượng Phật giáo. Trong triều đại này, có nhà điêu khắc Haribhada đã tạc pho tượng này từ một khối đá lớn có tên là Chunar. Pho tượng có chiều dài khoảng 6 mét, được đặt trên một bệ đá hình chữ nhật cao khoảng nửa mét và tôn thờ trong chùa Niết Bàn. Tượng nằm nghiên bên hữu, đầu tượng hướng về phương bắc và gối lên tay phải, mặt tượng hướng ra cửa chánh nam, tay trái đặt xuôi trên hông, hai chân song song chồng lên nhau. Pho tượng đã thể hiện đầy đủ các tướng hảo và vẻ đẹp của một đấng Thế Tôn.

Một điều đáng buồn là pho tượng đã bị đập gảy làm nhiều phần. Trong lúc khảo cổ khai quật từ đống gạch đổ nát của tháp và chùa Niết Bàn, Cunningham và các cộng sự của mình đã phát hiện pho tượng này vào năm 1876, đoàn khảo cổ của ông cũng phát hiện những bộ hài cốt phủ phục trên pho tượng này, đây rất có thể là những vị Tăng sĩ đã lấy thân mình bảo vệ thánh tượng, không cho những kẻ cuồng tín đập phá tôn tượng. Ngày nay, pho tượng đã được ráp lại và thờ đúng vị trí ngày xưa; dù bị đập gảy nhiều phần, nhưng thánh tượng đã được hồi phục lại và trở thành một trong những bảo vật thiêng liêng tại thánh tích Kushinagar.

Nơi trà tỳ kim thân của đức Phật: Rời khuôn viên đức Phật nhập Niết-bàn, đi bộ gần 2 km, chúng ta đến một hoa viên xinh đẹp khác, đó là nơi diễn ra lễ Trà tỳ kim thân của đức Thế Tôn. Ngày xưa, nơi đức Phật nhập Niết-bàn và nơi trà tỳ kim thân đức Phật là một, đều thuộc thánh tích Kushinagar, nhưng vì khu vực này quá rộng, nên ngày nay được chia ra làm hai khu vực để chăm sóc và bảo vệ tốt hơn.

Tháp Trà Tỳ (Angrachaya Stupa):

Tại khuôn viên diễn ra lễ Trà tỳ của đức Phật có một ngôi tháp thật lớn, hình dạng đặc biệt trông giống như một ngôi mộ cổ vĩ đại. Tháp có chiều cao khoảng hơn 8 mét, đường kính của tháp đến 34 mét. Niên đại của ngôi tháp chưa được xác định chính xác. Đây được coi là một trong những chốn thánh địa linh thiêng nhất đối với Tăng Ni và Phật tử trên toàn thế giới. Ngọn lửa thiêng trà tỳ đức Phật được hàng trăm triệu tín đồ tôn kính suốt mấy ngàn năm qua, là một hình ảnh anh minh bất tử, nó luôn gợi lên muôn vàng cảm xúc kính yêu.


Khuôn viên tháp Trà tỳ


Đoàn người hành hương nhiễu quanh tháp Trà tỳ

Pháp sư Huyền Trang đã từng đến viếng nơi đây vào năm 627 Tây lịch đã niêu tả rất rõ ngôi tháp này trong tập sách “Đại đường tây vực ký”: “Về phía bắc của thành này, sau khi băng qua dòng sông Ajitavati (A-tỳ-ba-phạt-để), và đi khoảng hơn 300 bước, có một bảo tháp. Đây là nơi trà tỳ kim thân của đức Như Lai. Đất chổ này trộn lẫn giữa đất và than, có màu vàng đen. Bất cứ người nào với lòng chí thành nguyện cầu và tìm ở đây, chắc chắn sẽ tìm thấy một vài xá lợi của đức Như Lai.” 
Xung quanh bảo tháp Trà tỳ có nhiều tháp nhỏ và nền móng các tháp, tinh xá, tự viện… hầu hết các tháp và tinh xá này được xây dựng từ thế kỉ thứ nhất trở về sau. Toàn bộ khu vực này được trồng những thảm cỏ xanh, những cây cối và hoa kiểng rất đẹp. Nhưng hoa cỏ hình như cũng úa tàn khi tâm trạng chúng ta luôn cảm thấy u buồn vì sự từ giả của một đấng Thế Tôn.

Với trái tim thổn thức bởi nỗi đau của nhân loại, với trí tuệ siêu việt của một thánh nhân, với ý chí phi thường của một người anh hùng, vị Thái tử Sidatta đã anh dung ra đi tìm con đường giải thoát, và rồi đoạn đường mà ngài đã từng đi qua đã kết thúc tại Kushinagar này.

Hơn 25 thế kỷ đã trôi qua, bước thăng trầm của Phật giáo cũng theo dòng thịnh suy của thế gian biến chuyển không ngừng; Tứ Động Tâm của Phật giáo có những lúc huy hoàng đón nhận sự qui ngưỡng của những bậc đế vương và toàn thể thần dân Ấn Độ, cũng có những lúc suy tàn, rồi bị chôn vùi vào cát bụi lãng quên. Ngày nay, với sự phát triển về thông tin, về phương tiện đi lại, về kinh tế, kỹ thuật… đời sống của con người nói chung hay của người Phật tử nói riêng cũng được nâng cao, nhờ thế những sự trợ duyên ủng hộ Phật giáo cũng được phát triển. Tứ Động Tâm của Phật giáo nói chung hay thánh tích Kushinagar nói riêng đã thật sự chuyển mình thức dậy sau giấc ngủ ngàn thu. Có lẽ hơn lúc nào hết, ngày nay, Tứ Động Tâm đã mở lòng đón nhận hang ngàn, hàng triệu người con Phật khắp nơi trên thế giới trở về chiêm bái, tu tập, đó là một trong những phước duyên tối thượng để tăng trưởng phước đức ngay giữa cuộc đời ác trược đầy biến động này.

Theo Du Lịch Tâm Linh

Thánh tích Sarnath – Lộc Uyển

Thánh tích Sarnath tuy bị chôn vùi trong cát bụi, bị sự lấn áp và che phủ của cỏ dại, cây rừng… nhưng lại ẩn chứa trong lòng những bảo vật, những tranh tượng vô giá cũng như một khối lượng khổng lồ gạch đá ở đây.

Trên bước đường hành trình tâm linh về xứ Ấn thiêng liêng để chiêm bái Tứ Động Tâm, thông thường những người con Phật nói riêng hay du khách trên thế giới nói chung sau khi đáp máy bay tại phi trường Delhi, địa điểm viếng thăm đầu tiên sẽ là thành phố Varanasi. Nơi đây du khách sẽ được chiêm bái thánh tích Sarnath, khu vườn Lộc Uyển thiêng liêng xinh đẹp, nơi đức Phật chuyển vận bánh xe Pháp đầu tiên, bắt đầu cuộc hành trình hoằng pháp cứu khổ độ sanh và viếng thăm dòng sông Hằng thiêng liêng huyền bí. Tiếp đó cuộc hành trình tâm linh sẽ đưa mọi người viếng thăm chiêm bái thánh tích Bồ-đề-đạo-tràng (nơi đức Phật thành đạo), thánh tích Kusinagar (nơi đức Phật nhập Niết-bàn) và thánh tích Lâm-tỳ-ni (nơi đức Phật đản sanh)…

Đó là cuộc hành trình tâm linh thuận theo không gian địa lý. Nếu thuận theo thời gian của Tứ Động Tâm thì khách hành hương phải đáp máy bay ở Nepal để chiêm bái thánh tích Lâm-tỳ-ni, sau đó viếng thăm thánh tích Bồ-đề-đạo-tràng, chiêm bái thánh tích Sarnath, và cuối cùng đảnh lễ thánh tích Kusinagar… cuộc hành trình như thế sẽ không thuận đường, nên thường vất vả hơn. Trong phạm vi bài này, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về thánh tích Sarnath, vườn Lộc Uyển, nơi Ba ngôi báu được thành lập đầu tiên giữa cuộc đời.

1.Truyền thuyết về thánh tích Sarnath (Lộc Uyển)

Lộc Uyển là tên Hán Việt, Lộc (-) nghĩa là con nai, Uyển (-) là khu vườn đẹp; như vậy Lộc Uyển có nghĩa là Khu vườn nai xinh đẹp. Danh từ Lộc Uyển được dịch nghĩa từ tiếng Pāli là Sarnath (vua của loài nai); hay từ Migadāya (vườn nai). Sở dĩ gọi là Migadāya (vườn nai), vì khu vườn này được vua xứ Ba-la-nại bảo vệ các loài nai sống tự do trong khu vườn này và không cho dân chúng giết hại; nhờ thế nơi đây rất yên tịnh, thanh vắng và trở thành nơi cư trú lý tưởng của các vị ẩn sĩ tiến tu đạo nghiệp. Khi chưa chứng quả vị Vô thượng Bồ đề, đức Phật và năm anh em Kiều Trần Như cũng từng tu tập khổ hạnh trong khu rừng này.

Theo kinh tạng Pāli, khu rừng này thường được gọi là chỗ “Chư thiên đọa xứ” (Isipatana), vì nơi đây có 500 vị Bích Chi Phật nhập diệt giữa hư không, xác thân tứ đại các Ngài rơi xuống tại nơi này, nên nơi này được gọi là Isipatana. Vào thế kỉ thứ VII, khi ngài Huyền Trang đến chiêm bái thánh tích này, Ngài cho biết có một bảo tháp được xây để đánh dấu nơi xác thân của 500 vị Bích Chi Phật rơi xuống, ngày nay thì bảo tháp này không còn nữa(1).

Danh từ Sarnath (vua của loài nai), xuất phát từ câu chuyện tiền thân của đức Phật Thích-ca, câu chuyện hàm chứa một tấm lòng đại từ bi của một con nai đầu đàn anh dũng. Chuyện kể rằng:

Thuở xưa tại xứ Ba-la-nại, trong một khu rừng xinh đẹp, có hai đàn nai đang sinh sống, mỗi đàn có hơn năm trăm con và được dắt dẫn bởi một con nai đầu đàn mạnh khỏe và thông minh, lanh lợi. Bất hạnh thay, nhà vua của xứ này rất thích thịt nai và thường hay đi săn bắn. Một hôm vua cùng tùy tùng đến khu rừng này săn bắn, phát hiện khu rừng có rất nhiều nai sinh sống, nhà vua rất vui mừng ra sức đuổi bắt; nhưng đàn nai rất khôn ngoan, chúng chạy luồn lách giữa những cây rừng, nhà vua không làm sao đuổi bắn được. Trải qua mấy canh giờ ra sức đuổi theo bắn giết mệt nhọc mà không săn được con nai nào. Nhà vua rất bực mình sai quân lính bao vây cả khu rừng và dùng lửa để đốt chết hai đàn nai. Biết được hậu quả kinh khiếp sắp xảy ra cho cả giống nòi và khu rừng, hai con nai đầu đàn (tiền thân của đức Phật và Đề-bà-đạt-đa) liền chạy ra khỏi khu rừng đi đến trước mặt nhà vua và thưa rằng: Xin Đại vương đừng đốt khu rừng giết cả loài nai và những sinh vật trong ấy, chúng tôi xin nguyện mỗi ngày sẽ dâng nạp cho ngài một con nai; như thế ngày nào ngài cũng có thịt nai tươi để dùng và chúng tôi cũng được kéo dài mạng sống. Nhà vua thấy nai đầu đàn rất dũng mãnh và xinh đẹp thưa như thế liền bằng lòng ngay, ra lệnh cho quân lính rút khỏi khu rừng và quyết định không đốt khu rừng nữa.

Hằng ngày, hai nai đầu đàn lần lượt sắp xếp một con nai để vào cung nộp mạng cho nhà vua. Một hôm sắp đến lượt một con nai có mang thai đi nộp mạng, nai mẹ nhìn bụng mà xót xa nghĩ rằng: con mình chưa chào đời mà đã phải chết theo mình, thương con đau lòng trằn trọc suốt đêm, sáng mai nai mẹ quyết định đi gặp nai đầu đàn của mình (tiền thân Đề-bà-đạt-đa) xin hoãn lại đợi ngày sanh xong sẽ đi nộp mạng. Con nai đầu đàn này không những không thông cảm với hoàn cảnh của nai mẹ mà còn rầy la, quở mắng và buộc nai mẹ phải đi nộp mạng trong ngày theo thời hạn và không được trì hoãn. Nai mẹ hai dòng lệ chảy dài, cúi đầu vâng theo, buồn tủi ra đi. Ra đến bìa rừng, nai mẹ gặp nai đầu đàn của đàn nai còn lại (tiền thân của đức Phật), nai đầu đàn này nhìn thấy nai mẹ mắt lệ tuôn trào, lầm lũi bước đi. Sau khi hỏi thăm sự tình và nghe nai mẹ trình bày sự việc, nai đầu đàn cảm thông nổi khổ và tình thương mẫu tử bao la của nai mẹ. Tâm đại từ bi cứu khổ nạn phát sinh, nai đầu đàn liền nguyện chết thay cho nai mẹ, khiến nó rất vui mừng, cảm phục nai đầu đàn vô cùng và cúi đầu lạy tạ. Sau khi từ giã đàn nai thân thương của mình, nai đầu đàn ung dung tiến thẳng về cung thành để nộp mạng. Khi vào hoàng cung, từ xa nhìn thấy nai đầu đàn, nhà vua rất kinh ngạc và hỏi rõ mọi sự tình. Khi nghe nai đầu đàn thuật lại, nhà vua rất kính phục và thầm nghĩ rằng, thân mình là một đấng quân vương mà không có lòng bao dung, đại từ bi như con nai đầu đàn này. Cảm phục trước tấm lòng đại bi ấy của nai đầu đàn, nhà vua đã sai người thả nai đầu đàn về, đồng thời tự hứa từ nay sẽ không dùng thịt nai nữa và ra lệnh cho người bảo vệ khu vườn không cho bất kì ai đến khu rừng ấy quấy phá đàn nai nữa. Từ thuở đó cho đến ngày nay, khu rừng được mọi người gọi bằng cái tên thân thiện là Sarnath (vua của loài nai).


2. Lịch sử thăng trầm của thánh tích Sarnath

Lịch sử Sarnath đã được biết đến từ rất xa xưa, thuở đức Phật Thích-ca còn là vị Bồ-tát hóa thân tu tập trong loài nai nơi khu rừng hoang dã. Sarnath còn được biết đến qua Kinh tạng, đó là nơi thiêng liêng mà chư Phật trong quá khứ, hiện tại và tương lai đều chọn nơi đây làm chiếc nôi của Phật giáo để khai sinh giáo pháp giác ngộ, cứu khổ độ sanh. Thánh tích Sarnath cũng được biết qua huyền thoại về 500 vị Phật nhập Niết-bàn giữa hư không bỏ lại xác thân tứ đại ở nơi này với bảo tháp tưởng niệm. Sarnath lại được biết sẽ là nơi thiêng liêng đón chào đức Phật Di Lặc chuyển pháp luân, thiết lập Long Hoa hội sau này, vì cũng chính tại thánh địa này, đức Phật Thích-ca đã thọ kí cho Ngài là sẽ thành Phật hiệu là Từ Thị Như Lai.2

Không những thế, thánh tích Sarnath càng được nổi danh hơn vì vùng đất này tọa lạc trong một địa danh nổi tiếng nhất của Ấn Độ, đó là vương thành Banares (Ba-la-nại), thành phố Vanarasi nằm bên cạnh sông Hằng, dòng sông thiêng liêng và huyền bí nhất của người dân xứ Ấn. Thành phố Vanarasi được mệnh danh là thành phố tâm linh, là Kinh đô ánh sáng, là trung tâm của tư tưởng và học thuật cao nhất của Ấn Độ. Hơn thế nữa, thành phố này cũng là trung tâm thương mại, mà nổi tiếng nhất là mặt hàng tơ lụa. Tơ lụa ở Banares nổi danh cả thế giới và đã hình thành con đường tơ lụa xuất khẩu tơ lụa đến mọi nơi trên thế giới từ mấy ngàn năm đến tận bây giờ. Khi hành hương chiêm bái các thánh tích của Phật giáo, một học giả gốc Việt, sinh sống tại Châu Âu có viếng thăm thành phố này đã nhận xét rằng: “Trên thế giới có những thành phố cổ như Theben ở Ai-cập, Ninive hay Babylon ở Ba Tư. Chúng thành hình cả ngàn năm trước công nguyên, thậm chí 1700 năm như Babylon, kinh đô rực rỡ một thời của miền Trung Á. Thế nhưng về mặt cổ xưa, các thành phố đó lu mờ trước Varanasi, thành phố xuất hiện khoảng 3000 năm trước công nguyên. Có lẽ Varanasi chỉ thua kinh đô Trường An của Trung Quốc với số tuổi 6000 năm khả kính. Khoảng năm 900 trước công nguyên, những người dòng Arya của Ấn Ðộ đến Varanasi, biến nơi đây thành một kinh đô hùng mạnh về thương mại cũng như tư tưởng học thuật. Và Varanasi phồn vinh tới ngày hôm nay, trải qua gần 5000 năm lịch sử, trong lúc nhiều thành phố cổ khác đã điêu tàn.”3

* Thời hoàng kim của thánh tích Sarnath

Không phải ngẫu nhiên hay vô tình mà đức Phật Thích-ca đã chọn Sarnath để chuyển vận bánh xe pháp, đem ánh sáng giải thoát giác ngộ đến cho nhân loại, mà có lẽ đấy là truyền thống nhiều đời của chư Phật trong quá khứ, hiện tại và tương lai đều chọn vùng đất này thiết lập ba ngôi báu, thiết lập chánh pháp, hình thành chiếc nôi của Phật giáo. Qua kinh tạng, chúng ta biết được rằng vô lượng kiếp chư Phật trong quá khứ từ đức Phật Ca Diếp, đến đức Phật Thích-ca trong hiện tại và cả đức Phật Di Lặc ở vị lai đã, đang và sẽ chuyển vận bánh xe Pháp lần đầu tiên tại thánh tích Sarnath này.4

Hơn thế nữa, phải chăng nơi đây là trung tâm của mọi tư tưởng và học thuật, là thành phố tâm linh của người dân xứ Ấn, nên đức Phật đã quyết định chuyển pháp luân tại đây, đem ánh sáng giác ngộ xóa tan những luận lý mơ hồ, những học thuyết thiên chấp về thần quyền, về giai cấp, về chủ nghĩa đoạn diệt ép xác khổ hạnh, hay buông lung trong lạc thú của trần gian… Để hình thành nên một trung tâm Phật giáo đầu tiên trên thế giới.

Theo lịch sử của đức Phật Thích-ca, sau khi chuyển vận bánh xe pháp, hình thành ba ngôi báu: Phật, Pháp, Tăng tại nơi này, Ngài đã lưu lại đây để an cư trong ba tháng đầu tiên, thuyết giảng chánh pháp giải thoát cho nhân loại. Sau đó Ngài đã vân du khắp mọi nơi trên xứ Ấn, để hoằng dương chánh pháp, giáo hóa độ sanh. Trên bước đường hoằng pháp ấy, rất ít khi đức Phật trở lại thánh tích này. Tuy nhiên, suốt cuộc đời của Ngài, Sarnath đã trở thành một trong sáu trung tâm học Phật lớn nhất thời ấy, có số lượng chư Tăng và Phật tử rất đông. Điều ấy chúng ta bắt gặp qua lời thưa thỉnh của tôn giả A-nan. Sau khi nghe đức Phật tuyên bố trong ba tháng nữa sẽ nhập Niết-bàn tại rừng cây Ta-la song thọ, thuộc thành Kusinagar, đức Anan đã ngấn lệ thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, còn có những thành lớn khác. Một là Chiêm-bà, hai là Xá-vệ, ba là Bệ-xá-ly, bốn là Vương xá, năm là Ba-la-nại, sáu là Ca-tỳ-la-vệ. Sao Thế Tôn không nhập Niết-bàn ở các nơi ấy, mà quyết định tại thành bằng đất nhỏ hẹp này, một thành nhỏ hẹp nhất trong các thành?”5

Khoảng 200 năm sau thời đức Phật, đến thời vua Aśoka (A-dục vương) (304-269 TCN), một vị vua có công nhất trong lịch sử ủng hộ và truyền bá Phật pháp. Vua Aśoka không những đem giáo pháp của đức Phật truyền bá và áp dụng trong đời sống của toàn dân Ấn Độ, mà còn truyền giáo pháp của Ngài đến nhiều nước khác bên ngoài Ấn Độ. Sau khi vứt bỏ thanh gươm chinh phạt, chém giết đầy tội lỗi, nhà vua đã quay đầu về Phật pháp, từ bỏ đời sống của một vị vua hung tàn “Ác vương A-dục” để trở thành vị vua thánh thiện “Hộ pháp A-dục”, trở thành một trong những vị vua nổi danh nhất trong lịch sử của nhân loại. Vua Aśoka đã phát tâm đi đảnh lễ tất cả các thánh tích của Phật giáo, đồng thời cho người kiến lập vô số các bảo tháp, tu viện, chùa chiền, trụ đá, bia kí… để hoằng dương chánh pháp. Lịch sử cho biết có đến 84000 ngôi bảo tháp được kiến tạo trên toàn lãnh thổ Ấn Độ; hầu hết những di tích như bảo tháp, tu viện, trụ đá… ở Sarnath hiện nay phần lớn được xây dựng dưới thời của vua Aśoka. Điều ấy chứng tỏ rằng thánh tích Sarnath thời ấy cũng được vua Aśoka ủng hộ hết lòng, và nơi ấy vẫn là một trung tâm Phật giáo nổi tiếng trên toàn cõi Ấn Độ.

Gần 300 năm sau thời vua Asoka, đến thời vua Kanishka (Ca-nị-sắc-ca, khoảng đầu thế kỉ thứ II AD, một vị vua Phật tử thuần thành), các giáo phái ngoại đạo nổi lên, họ lấy giáo lý giải thoát của đức Phật trộn lẫn vào lý thuyết của họ, cho đó là giáo lý giải thoát của mình… làm cho chánh tà xen tạp, lòng người hoang mang, không biết đâu là Phật pháp chính tông để áp dụng tu tập. Trước tình hình đó, vua Kanishka đã cung thỉnh các bậc Tỳ-kheo trưởng lão chân tu, tinh thông giáo pháp đứng ra tổ chức kiết tập lại kinh điển, làm cho Phật pháp được hiển minh, không để sự xen tạp của các tà thuyết làm mơ hồ. Dưới sự ủng hộ nhiệt tâm của vua Kanishka, giáo pháp của đức Phật đã được soạn thành văn tự, biên chép thành sách lần đầu tiên trong lịch sử kinh tạng Phật giáo; đây là kỳ kiết tập kinh điển lần thứ tư. Dưới thời đại của vua Kanishka, Phật giáo nói chung, cũng như thánh tích Sarnath nói riêng rất hưng thịnh. Trong những cuộc khảo cổ, nhiều đồng tiền cổ được phát hiện trong ấy có hình tượng đức Phật, được đúc dưới triều đại của vua Kanishka, điều ấy có thể khẳng định rằng Phật giáo được xem như tôn giáo của quốc gia dưới triều đại của ông. Riêng tại thánh tích Sarnath, nhà vua đã cho trùng tu lại những tu viện cũ, xây thêm những tu viện mới, và đúc nhiều tượng Phật để góp phần phát triển thánh tích này. Một bia kí đào được ở Sarnath thuộc triều đại của vua Kanishka, do Tỳ-kheo Bala đã khắc như sau: “Thành Ba-la-nại nằm dưới sự thống trị của Đại vương Ca-nị-sắc-ca và do một phó vương dưới quyền của ngài. Có thể nói hầu hết các đại vương đều có doanh trại ở Mathura. Tỳ-kheo Bala và Pusyabuddhi thuộc gia đình hoàng gia. Họ đã hành hương chiêm bái những Thánh tích Phật giáo và cúng dường tượng ở những nơi mà họ đến chiêm bái.”(7) Qua những trình bày trên cho thấy thánh tích Sarnath dưới triều của vua Kanishka rất hưng thịnh, là nơi quy ngưỡng của mọi người từ vua, quan, cho đến mọi thần dân.

Sau thời vua Kanishka, đất nước Ba-la-nại có các vị vua khác nối ngôi cai trị, hầu hết những vị này không ủng hộ Phật pháp nhiều, vì họ theo tín ngưỡng Bà-la-môn giáo. Tuy nhiên, thánh tích Sarnath trong giai đoạn này (thế kỉ II –VI AD) vẫn là một trung tâm tu học lớn của Phật giáo, nhưng không được phát triển bằng những thời kì trước kia. Giữa thế kỉ VII AD, ngài Huyền Trang (595-664) sang Ấn Độ du học, khi đến chiêm bái thánh tích này đã mô tả trong cuốn kí sự của mình:

“Phía Đông Bắc của sông Ba-la-nại đi hơn mười dặm, đến chùa Lộc Dã. Trong khu vực chia ra làm tám phần liên hệ với nhau, nhà cửa lầu các tráng lệ quy mô. Tăng sĩ sống hơn 1500 người, tu theo Chánh Lượng Bộ thuộc Tiểu thừa. Trong thành lớn có một Tinh xá cao hơn 200 feet (60 m). Phía bên trên tạo hình một trái xoài được thếp màu vàng. Đá nhiều tầng chồng chất tạo thành. Đá chất lên bốn bên như thế cả hàng trăm miếng, mỗi miếng đều có chạm tượng Phật màu vàng. Ở trong Tinh xá đó, có một tượng Phật bằng đá gần bằng thân của đức Như Lai, tạc theo tư thế chuyển pháp luân. Phía Tây Nam Tịnh xá có một bảo tháp bằng thạch do vua A-dục dựng lên, đã hư hoại, chiều cao hơn 100 feet (30 m). Phía trước đó có dựng một trụ đá cao hơn 70 feet (25 m). Đây là thạch ngọc cho nên có ánh sáng phản chiếu rất đẹp. Người nào có tâm đến cầu phước, ảnh của mình sẽ chiếu lên các tượng và thấy rõ tướng Thiện Ác. Đây là nơi Như Lai thuyết pháp lần đầu tiên sau khi thành đạo.”(8)

Qua sự mô tả của ngài Huyền Trang cho ta biết rằng, thánh tích Sarnath vào giai đoạn này vẫn còn phát triển, mọi lầu các, tu viện vẫn còn tráng lệ và quy mô, các Tỳ-kheo ở đó có hơn 1500 người… như thế nơi đây vẫn là một trung tâm Phật giáo thịnh hành, một thánh tích thiêng liêng để mọi người quyngưỡng.

Như vậy, lịch sử của thánh tích Sarnath từ thời của đức Phật đến thế kỉ thứ VII AD, trải qua hơn một ngàn năm vẫn còn là một thánh tích thiêng liêng, một trung tâm tu học lớn của Phật giáo; là thánh địa trang nghiêm thanh tịnh cho hàng ngàn chư Tăng thúc liễm thân tâm tu tập giải thoát, là nơi quy ngưỡng của những bậc đế vương như Asoka, Kanishka…. là suối nguồn của giải thoát từ bi, tắm mát cho hàng vạn dân xứ Ấn. Thời kì này có thể gọi là thời hoàng kim của thánh tích Sarnath.

* Thời suy tàn của thánh tích Sarnath

Nếu thánh tích Sarnath có hơn một ngàn năm để phát triển huy hoàng (từ thời đức Phật đến thế kỉ VIII), thì cũng có cả ngàn năm bị điêu tàn, lãng quên và chôn vùi trong cát bụi. Từ thế kỉ thứ VIII đến thế kỉ XVIII, lịch sử của Sarnath là những trang sử bi thương. Thế kỉ VIII trở đi, thánh tích Sarnath hầu như ít được mọi người biết đến, có lẽ thời điểm này sự tu tập và hoằng pháp ở nơi đây không được phát triển; lại thêm các triều đại lúc ấy do các vị vua theo Ấn giáo cai trị, những vị vua này không những không ủng hộ Phật giáo mà còn cho xây những ngôi đền Ấn giáo bên cạnh thánh tích Sarnath, từ đó tạo sự lấn áp của Ấn giáo. Sự thiếu ủng hộ của vua quan, quần chúng… đã làm cho Sarnath ngày càng mai một và bị lãng quên.

Trang sử bi thương và kinh khiếp nhất của thánh tích Sarnath thật sự bắt đầu từ sự xâm lược của các đội quân Hồi giáo cực đoan. Năm 1193 cầm đầu đội quân tàn ác ấy là vua Mahommada, sau khi xâm lược Ấn Độ, đội quân hung tàn này đã chém giết và phá sạch tất cả những công trình kiến trúc của các tôn giáo khác. Vua Mahommada đã tuyên bố chấm dứt triều đại Ấn giáo và lập nên vương triều Hồi giáo. Trong những lần xâm lược của các đội quân hung tàn ấy có đến hàng vạn tu sĩ của Phật giáo và Ấn giáo bị giết hại, hàng ngàn chùa tháp, tu viện, đền đài bị đập phá và đốt sạch; những thánh tượng của đức Phật, Bồ-tát đều bị tàn phá, đập nát và chôn vùi hết sức vô lương tâm. Hầu hết những thánh tích nổi tiếng của Phật giáo như Bồ-đề-Đạo tràng, Sarnath… đều bị hủy diệt; chỉ riêng Viện đại học Phật giáo Nalanda, toàn bộ kho tàng kinh sách, thư viện, đền đài, phòng xá… bị tàn phá và đốt cháy ròng rã nửa năm !!!

Sau khi hủy diệt những đền đài, tu viện, chùa tháp… quân Hồi đã bắt dân chúng xây dựng những đền đài Hồi giáo ngay trên các thánh tích và tu viện này. Thánh tích Sarnath ngày ấy hầu như đã xóa sổ và hoàn toàn bị chôn vùi trong cát bụi.

Sự độc tôn và tàn ác của Hồi giáo cực đoan cai trị vùng đất này đến thế kỉ XVIII. Sau đó người Ấn giáo đứng lên giành lại chính quyền. Giai đoạn đen tối của Phật giáo tưởng đã đi qua, nhưng tín đồ Ấn giáo cũng độc tôn, tiếp tục nổi lên đập phá toàn bộ những thánh đường Hồi giáo và cho xây dựng đền Ấn giáo ngay trên những vùng đất ấy. Phật giáo nói chung hay thánh tích Sarnath ngày ấy nói riêng vẫn tiếp tục chìm trong bóng tối.

Người Ấn giáo tuy không hiếu chiến như người Hồi giáo cực đoan, nhưng niềm tin tôn giáo và tính bảo thủ của họ mạnh mẽ, do vậy Phật giáo vẫn chưa có cơ hội phục sinh ngay trên mảnh đất sản sinh ra nó. Thậm chí cho đến ngày nay, tính bảo thủ ấy vẫn còn rất mạnh, hầu như các nơi trên xứ Ấn, hễ nơi nào có một ngôi đền, nhà thờ hay tu viện của các tôn giáo khác xây dựng lên thì người Ấn sẽ xây một đền thờ Ấn giáo bên cạnh để kìm hãm sự phát triển của tôn giáo ấy. Như vậy, sự phục hưng của Ấn giáo cũng như sự chấm dứt của vương triều Hồi giáo bạo tàn cũng không làm cho Phật giáo hồi sinh được và suốt những thế kỉ ấy thánh tích Sarnath vẫn còn ngủ quên cùng cát bụi thời gian. Qua sự tìm hiểu trên, chúng ta thấy rằng thánh tích Sarnath từ thế kỉ thứ 8 đến thế kỉ 18, trải qua cả ngàn năm đi từ suy tàn đến hoại diệt. Khoảng thời gian ấy có thể gọi là thời suy tàn của thánh tích Sarnath.

*Thời kì hồi sinh và phát triển trở lại của thánh tích Sarnath

Thánh tích Sarnath tuy bị chôn vùi trong cát bụi, bị sự lấn áp và che phủ của cỏ dại, cây rừng… nhưng lại ẩn chứa trong lòng những bảo vật, những tranh tượng vô giá cũng như một khối lượng khổng lồ gạch đá ở đây. Do vậy vào cuối thế kỉ 18, người dân Ấn giáo thường xuyên vào nơi đây để khai thác tìm bảo vật cũng như đào xới khu vực này để lấy gạch đá về xây nhà cửa, dinh thự… Trước tình hình ấy, năm 1798, chính quyền Ấn Độ công nhận thánh tích Sarnath là khu di tích quốc gia và nghiêm cấm mọi sự đào xới của cá nhân. Khu di tích Sarnath bắt đầu được mọi người trong nước và thế giới biết đến qua các cuộc khai quật khảo cổ của Alexander Cunningham, nhà khảo cổ nổi tiếng người Anh, cũng như những nhà khảo cổ nổi tiếng khác. Sự phát hiện những nền móng tu viện, chùa tháp, trụ đá, bia kí… và hàng trăm tranh, tượng của đức Phật, Bồ-tát… như là những chứng cứ hùng hồn, góp một tiếng nói quan trọng cho cộng đồng Phật giáo trên thế giới cũng như sự quan tâm của các học giả trí thức… tìm về chiêm ngưỡng.

Nhưng tất cả những điều ấy chưa làm cho thánh tích Sarnath cũng như Phật giáo ở nơi này hồi sinh. Thánh tích Sarnath thật sự hồi sinh, phát triển trở lại và được cộng đồng Phật tử khắp nơi trên thế giới biết đến qua sự xuất hiện của ngài Dhammapāla. Ngài Dhammapāla là một danh Tăng nổi tiếng người Sri Lanka trong phong trào chấn hưng Phật giáo nước này, không những thế, Ngài còn hoằng dương Phật pháp đến các nước phương Tây, Ngài là người đứng ra vận động chư Tăng và Phật tử trên thế giới thành lập hội Maha Bodhi để đòi lại thánh tích Bồ-đề Đạo tràng từ trong tay những người Ấn giáo. Năm 1891, ngài Dhammapāla đến thánh tích Sarnath, nhìn thấy cảnh tượng điêu tàn của khu thánh tích, cũng như Phật giáo ở nơi này, đau lòng trước cảnh ấy, Ngài đã phát nguyện ở lại nơi này vận động cộng đồng chư Tăng và Phật tử khắp nơi trên thế giới quan tâm và ủng hộ. Riêng bản thân, Ngài đã vận động xây dựng một ngôi chùa nổi tiếng ngay cạnh thánh tích này. Với những công trình Ngài đã thực hiện và đóng góp ở nơi đây, chính phủ Ấn Độ đã ghi ân bằng cách lấy tên Ngài đặt tên cho một con đường ở đây và đem xá-lợi Phật khai quật được ở Taxila, Nagarjuni Konda, hiến tặng Ngài để tôn thờ trong chùa này. Cộng đồng chư Tăng và Phật tử các nước trên thế giới đã đến chiêm bái thánh tích này và xây dựng những ngôi chùa đại diện của nước mình gần thánh tích Sarnath và cùng chung lo Phật sự, góp phần làm cho Phật giáo ở nơi đây được phát triển trở lại. Cho đến ngày nay, thánh tích Sarnath được chính phủ Ấn Độ cùng cộng đồng Phật tử nơi đây bảo vệ. Thánh tích Sarnath đã thật sự chuyển mình sau giấc ngủ ngàn thu và phát triển trở lại, trở thành một trong những thánh tích thiêng liêng và nổi tiếng nhất của cộng đồng Phật giáo hiện nay. Hàng năm thánh tích này đã quy tụ hàng triệu người con Phật từ khắp nơi trên thế giới trở về để chiêm bái, tụng kinh, tọa thiền và trải lòng mình để đón nhận những âm vang của bài pháp Tứ Diệu Đế trong một khu vườn thiêng liêng, tú lệ bên cạnh những chú nai gặm cỏ hiền lành.■
Chú thích:

1. Xem Đại Đường Tây Vực Ký, Quyển 7, TT. Thích Như Điển dịch.

2. Xem Sđd.

3. Mùi Hương Trầm, Tập II: Suối nguồn thiêng liêng, Tr.49,50. Nguyễn Tường Bách.

4. Xem Kinh Trường A-hàm, Kinh Đại Bản Duyên, TT. Tuệ Sỹ dịch và chú giải.

5. Kinh Trung A-hàm, Kinh Đại Thiện Kiến Vương, Tr.1, TT. Tuệ Sỹ dịch và chú giải.

7. Thiện Phúc, Thiên Trúc Tiểu Du Kí, tr.32

8. Xem Samuel Beal, Buddhist Recordeds Of The western World, First Published 1884, Printed in India, Part II, Book VII, p.45,46.

Thích Trí Lộc
Theo Đạo Phật Ngày Nay

Savatthi (Xá Vệ) & tịnh xá Jetavana (Kỳ Viên)

Savatthi là kinh đô của nước Kosala (Kiều-tát-la), một trong sáu thành phố lớn và sầm uất bậc nhất vào thời Đức Phật

Từ giã Sarnath, chúng tôi lên đường đi Savatthi (Sravasti, Shravasti). Năm giờ sáng, anh tài xế đã đánh xe đến chờ sẵn trước cổng chùa, đúng giờ chúng tôi yêu cầu chiều hôm trước. Người Ấn vốn rất ít chính xác giờ giấc. Họ vẫn thích xài giờ “dây thun” như kiểu ở Việt Nam. Người Ấn và người Việt có những nhược điểm mà tôi thấy khá giống nhau, đó là thói quen xả rác, trễ giờ, ít giữ lời hứa, và quan liêu…

Nơi được xác định là hương thất của Đức Phật tại tịnh xá Kỳ Viên.

Đường đi Savatthi không lớn, nhưng tương đối tốt; vừa mới qua mùa mưa nên cây cối rất xanh tươi. Hai bên đường không có nhiều nhà cửa mà hầu hết là ruộng đồng – những cánh đồng bát ngát. Nếu chỉ nhìn những cánh đồng vào mùa này và đừng đi qua những khu dân cư, ta khó nghĩ là người nông dân của Ấn nghèo khó. Vào thời điểm chúng tôi đang đi chiêm bái này, người nông dân Ấn đang khởi lên phong trào biểu tình đòi phân chia lại quyền sở hữu ruộng đất. Sự phát triển kinh tế của Ấn đã khiến cho khoảng cách giàu nghèo tăng lên một cách đáng ngại. Người nông dân mặc dù không bị chính phủ bỏ rơi, nhưng trong đời sống thực tế họ đang bị bỏ lùi lại phía sau. Chính phủ Ấn thực sự rất khó giải quyết vấn nạn này, bởi do số lượng dân nghèo quá lớn, sự gia tăng dân số không kìm hãm được ở nông thôn, cộng thêm ý thức hệ đẳng cấp vốn tồn tại hàng ngàn năm vẫn chưa tẩy trừ được…

Chúng tôi đến Savatthi vào buổi trưa, nghỉ lại ở một ngôi chùa Thái Lan do một cư sĩ quản lý. Trong chùa có một vài sư đang trú để đi học, hầu hết là người Cam-pu-chia. Các sư đang học tin học và cổ ngữ ở những ngôi trường trong vùng. Cam-pu-chia là một nước theo Phật giáo Theravāda và hầu hết dân chúng đều là Phật tử. Nhưng không được như các nước theo Phật giáo Theravāda khác như Thái Lan, Sri Lanka, Miến Điện,… Cam-pu-chia có rất ít chùa ở các Phật tích và họ cũng không có ngôi chùa nào ở Savatthi. Và Việt Nam, vào thời điểm tôi chiêm bái, vẫn chưa thấy có ngôi chùa nào hiện diện ở địa danh này.

Sơ lược lịch sử

Savatthi là kinh đô của nước Kosala (Kiều-tát-la), một trong sáu thành phố lớn và sầm uất bậc nhất vào thời Đức Phật. Kinh thành này ngày nay thuộc quận Gonda, bang Uttar Pradesh. Tên gọi của kinh thành này có nhiều cách giải thích khác nhau, nhưng theo truyền thống Phật giáo thì do vị hiền nhân Savattha sống ở đây nên nó được gọi là Savatthi. Vào thời Đức Phật, Savatthi nằm bên bờ con sông Aciravati mà ngày nay được gọi là sông Rapti, và vị vua trị vì kinh thành này là Pasenadi (Ba-tư-nặc), cũng là một vị đệ tử thuần thành của Đức Phật. Buddhaghosa (Phật Âm) nói rằng, vào thuở đó, nơi đây có 57 ngàn gia đình sinh sống. Bấy giờ có hai tịnh xá nổi tiếng ở Savatthi là Jetavana (Kỳ Viên) và Pubbarama. Ngoài ra còn có một ngôi tịnh xá khác có tên gọi là Rajakarama, do vua Pasenadi xây. Không xa kinh thành có một khu rừng rậm có tên gọi là Andhavana, và các Tỳ-kheo thường đến tu tập ở đó. Bên ngoài kinh thành có một ngôi làng có năm trăm gia đình làm nghề ngư phủ…

Wooward thống kê và đưa ra số liệu rằng, trong kinh tạng Pāli, có 871 bài kinh được Đức Phật thuyết ở đây. Trong số này, 844 kinh được thuyết tại Kỳ Viên, 23 được thuyết tại Pubbarama, và 6 kinh được giảng bên ngoài kinh thành Savatthi. Các bộ luận giải nói rằng, Đức Phật đã trải qua 25 kỳ an cư mùa mưa ở Savatthi; và trong 25 kỳ an cư này, 19 ở Kỳ Viên và 6 ở Pubbarama – ngôi tịnh xá do nữ cư sĩ Visakha (Tỳ-xá-khư) xây dựng cúng dường cho Tăng đoàn. Savatthi như vậy là nơi Đức Phật đã lưu trú lâu nhất và cũng từng thuyết nhiều bài kinh nhất.

Sau thời Đức Phật, lịch sử của Savatthi không còn được rõ ràng mãi cho đến thời kỳ Ashoka vào thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Theo nhiều tài liệu, Ashoka đã từng viếng thăm tịnh xá Kỳ Viên khi ông thực hiện một cuộc hành hương đến tất cả các thánh tích liên quan đến Phật giáo, và ông cũng cho xây dựng ở nơi đây những trụ đá và đền tháp để đánh dấu thánh địa. Ngài Huyền Trang cho rằng, Ashoka đã dựng hai trụ đá hai bên cổng phía đông của tịnh xá. Nhà chiêm bái cũng nói thêm, Ashoka đã cho xây dựng một ngôi tháp để thờ xá-lợi của Đức Phật sát bên một giếng nước mà Đức Phật từng dùng nước ở đó. Savatthi trong thời đại của Ashoka nói chung rất thịnh vượng.

Suốt kỷ nguyên đầu Tây lịch, dưới triều đại Kushan, Phật giáo trở thành một tôn giáo phổ biến với sự ủng hộ của các vua chúa. Các chùa tháp ở Kỳ Viên đã được trùng tu lại. Trường phái Nhất thiết hữu bộ (Sarvastivada) được thực tập thịnh hành ở đây. Các chùa tháp mới được xây dựng thêm và nhiều tượng Phật cũng như Bồ-tát được khắc chạm. Hầu hết những bức tượng này ngày nay được tìm thấy. Một trong số các bức tượng được tìm thấy là bức tượng Bồ-tát ngồi, mà chữ khắc ở đó cho biết nó được hai anh em Kshatriya tạc cúng. Và một bức tượng khác là tượng Phật ngồi trên một tòa sư tử, do Sihadeva tạc cúng. Hình như tập tục tạc tượng và khắc tên người hiến cúng lên đó đã phổ biến vào thời bấy giờ.

Dưới triều đại Gupta (thế kỷ IV-VII), ở tịnh xá Kỳ Viên vẫn còn nhiều Tăng nhân tu học, mặc dù ở trong kinh thành các chùa tháp đều đổ nát và một vài trong số đó bị các ngôi đền của Bà-la-môn giáo lấn chiếm. Ngài Pháp Hiển đến đây vào đầu thế kỷ thứ năm có đề cập đến ngôi tháp Angulimala và tịnh xá Mahaprajapati ở trong kinh thành, và cho rằng các Bà-la-môn đã không thành công trong việc hủy hoại các chùa tháp này. Ngài cũng nhắc đến hai trụ đá do vua Ashoka dựng ở Kỳ Viên, và có một hương thất mà theo ngài là nơi Đức Phật đã lưu trú trong những kỳ an cư mùa mưa ở đây. Bên ngoài tịnh xá, nhà chiêm bái vẫn còn nhìn thấy ngôi tịnh xá Purvarama do nữ cư sĩ Vishakha xây, nhưng đã đổ nát.

Ngài Huyền Trang viếng Savatthi vào thế kỷ thứ VII, dưới triều vua Harsha, đã mô tả kinh thành là một vùng đất hoang vu, có một vài Tăng sĩ Phật giáo sống ở đó, nhưng hầu hết vẫn là ngoại đạo. Trong số những chùa tháp đổ nát mà ngài nhìn thấy là tháp Sudatta (tháp Cấp Cô Độc), tháp Angulimala và tịnh xá của Tỳ-kheo-ni Prajapita, tất cả như được Pháp Hiển ghi nhận trước đó. Trong vòng hai thế kỷ, khoảng thời gian giữa ngài Pháp Hiền và Huyền Trang đến đây, tịnh xá Kỳ Viên đã đổ nát quá nhiều, và không còn người nào sống trong các tịnh xá lúc ngài Huyền Trang chiêm bái nơi này.

Không lâu sau khi ngài Huyền Trang chiêm bái, Phật giáo đã hồi sinh trở lại ở vùng này. Một vài hình ảnh khắc chạm và những bức tượng Phật và Bồ-tát được tìm thấy ở đây thuộc về thế kỷ thứ VIII và thứ IX đã cho thấy điều đó. Lịch sử về Savatthi hoàn toàn không được biết đến từ sau thế kỷ XII. Tuy nhiên những dấu tích của người Hồi giáo lại được tìm thấy ở đây. Có một ngôi mộ mà các nhà sử học cho là của Miran, vị thủ lĩnh Hồi giáo đầu tiên cai trị vùng này. Và Savatthi được biết trở lại vào năm 1863, khi nhà khảo cổ học A. Cunningham đã tìm đến khai quật địa danh này.

Di tích ngày nay

Ngày nay một số di tích của kinh thành vẫn còn. Trong số này, có ba địa điểm đáng chú ý và có nhiều người viếng thăm nhất, đó là tịnh xá Kỳ Viên, tháp Trưởng giả Cấp Cô Độ và tháp thờ Trưởng lão Vô Não (Angulimala).

Tịnh xá Kỳ Viên là một trong nhưng ngôi tịnh xá nổi tiếng vào thời Đức Phật, được nhắc nhiều trong kinh sách. Lịch sử hình thành ngôi tịnh xá, gắn liền với vị trưởng giả đầy nhiệt tâm Cấp Cô Độc, đã trở thành một câu chuyện huyền thoại khiến nhiều người biết đến. Chuyện kể rằng khi trưởng giả tìm đất để cất tịnh xá, ông đã nhìn thấy một khu vườn có đất đai bằng phẳng cây cối tươi tốt, và khi hỏi thăm chủ nhân của khu vườn này thì ông biết nó thuộc quyền sở hữu của Thái tử Kỳ-đà (Jeta). Nhưng Thái tử Kỳ-đà vì không muốn bán khu vườn nên mới bảo với trưởng giả rằng nếu ông đem vàng lát kín khu vườn thì thái tử sẽ bán. Ngỡ rằng lời thách đố đó sẽ làm Trưởng giả Cấp Cô Độc bỏ đi dự định, nào ngờ ông đã đem vàng phủ kín khu vườn theo yêu cầu của thái tử và lấy khu vườn về. Điều ấy đã khiến cho thái tử vô cùng ngạc nhiên, và cũng chính sự nhiệt tâm của trưởng giả đã đưa thái tử đến với Đức Phật.

Ngày nay toàn cảnh tịnh xá là một khu vườn khá lớn có nhiều cây xanh. Trên nền vườn, ngoài những nền gạch còn lại, hầu hết được trồng cỏ và được cắt xén cẩn thận. Trên nền gạch đó, các nhà khảo cổ đã xác định đâu là vị trí hương thất của Đức Phật, đâu là thiền đường, chỗ ở của Tăng chúng… Và trên lối vào tịnh xá, có một cây bồ-đề được cho là do Tôn giả A-nan trồng. Câu chuyện Tôn giả A-nan trồng cây bồ-đề này được đề cập trong Pujavaliya, một tác phẩm cổ của Sri Lanka. Tài liệu này thuật lại rằng, Đức Phật mặc dù sống ở đây một thời gian khá dài, nhưng hầu hết Ngài chỉ ở đây vào 3 tháng mùa mưa, các tháng còn lại trong năm Ngài vân du giáo hóa nhiều nơi. Những đệ tử của Ngài ở Savatthi mong muốn Ngài lưu trú hẳn ở trong kinh thành, nhưng điều này là không thể, và vì thế họ thỉnh Ngài để lại một vật gì đó để họ tưởng niệm là Ngài đang hiện diện trong khi Ngài không có mặt ở kinh thành. Để đáp lại thỉnh nguyện của các Phật tử, Tôn giả A-nan, được sự cho phép của Đức Phật, đã cho trồng một cây bồ-đề được chiết nhánh từ cây bồ-đề tại Bồ Đề Đạo Tràng để cho các Phật tử chiêm ngưỡng những khi Thế Tôn vắng mặt. Tài liệu cũng thuật lại rằng, tôn giả Mục Kiền Liên là người mang nhánh cây đó về, và Trưởng giả Cấp Cô Độc chính là người trồng nhánh cây đó.

Cách tịnh xá Kỳ Viên không xa là tháp Pakki Kuti, một trong hai ngôi tháp lớn còn sót lại. A. Cunningham đã xác nhận rằng ngôi tháp này chính là tháp thờ Tôn giả Vô Não như được ngài Pháp Hiển và Huyền Trang đề cập trong ký sự của mình. Tuy vậy, Hoey đã viện dẫn chứng cớ và cho rằng đó là một Chánh pháp đường do vua Passenadi xây cúng dường cho Đức Phật. Nhưng với cách bố trí của nó, thì đây không có gì khác hơn ngoài một ngôi tháp. Niên đại xây dựng ngôi tháp này vẫn chưa được xác định. Tôn giả Angulimala là một người được nhắc đến khá nhiều trong kinh sách Phật giáo, một phần do bởi hoàn cảnh đặc biệt trước khi xuất gia của tôn giả, cũng như sự kiện tôn giả gặp Đức Phật và rồi trở thành một vị đệ tử của Ngài. Angulimala vốn là một tên tướng cướp khét tiếng thời bấy giờ. Cái tên Angulimala có nghĩa là “chiếc vòng những ngón tay”. Bởi vì khi còn là một tướng cướp, ông đã từng giết rất nhiều người và mỗi lần giết chết một người ông lấy một lóng xương tay xâu lại làm thành một chiếc vòng. Nhưng sau khi gặp Đức Phật, ông đã quy phục, xuất gia theo Ngài và chứng đắc Thánh quả A-la-hán.

Tháp Trưởng giả Cấp Cô Độc (tháp Kachchi Kuti) là một trong những công trình kiến trúc quan trọng nhất được khai quật tại Maheth. Di tích này được xác định là ngôi tháp Suddata như được ngài Pháp Hiển và ngài Huyền Trang nhắc đến. Di tích có một lối kiến trúc phức tạp, mang dấu ấn của nhiều thời kỳ, bắt đầu từ triều đại Kushan cho đến thế kỷ XII sau Tây lịch. Hai ngôi tháp Pakki Kuti và Kachchi Kuti cách nhau khoảng chừng vài chục mét, nằm bên một con đường nhỏ giữa một vùng đất khô cằn nghèo khó. Cả hai đều không được bảo quản tốt, không có hàng rào bao bọc nên trâu bò mặc sức vào gặm cỏ xung quanh.

Savatthi ngày nay vẫn là một vùng đất nghèo khó, bao gồm sáu ngôi làng trên một diện tích 2.019 hecta; và dân chúng ở đây hầu hết đều là nông dân và có thu nhập thấp. Điện ở đây luôn bị cắt. Vào thời điểm tôi chiêm bái nơi này, thời gian có điện trong ngày ít hơn thời gian bị cắt điện. Trong cảnh cúp điện vào buổi hoàng hôn, nhìn những bóng người đen đủi lấm lem bước đi uể oải lờ đờ trên những con đường đầy bụi bặm, những chú bò chú dê thẩn thờ ngơ ngác bên những căn nhà lụp xụp liêu xiêu, thấy thật não lòng.

Savatthi của hơn 2.500 năm được mô tả là rất thịnh vượng, sung túc, vậy nhưng 25 thế kỷ sau lại vô cùng nghèo khó. Vô thường! Nhưng người dân và chính quyền Savatthi vẫn chờ đợi, vẫn trông mong một ngày nào đó xứ sở của mình sẽ trở nên khấm khá, xán lạn hơn nhờ vào việc khai thác du lịch.

Cách đến Savatthi

Savatthi cách Kushinagar khoảng 247km, cách Kapilvastu khoảng 198km, cách Lumbini khoảng 165km, cách Sarnath khoảng 315 km, và cách Lucknow khoảng 176km. Savatthi ngay này là một địa danh nằm cách xa thành thị, và cũng khá xa các sân bay và ga tàu. Sân bay gần nhất là ở Lucknow (thủ phủ bang Uttar Pradesh), cách Savatthi khoảng 151km. Nhà ga gần nhất là ở Balrampur, cách Savatthi khoảng 19km. Như vậy nếu đi bằng máy bay, ta phải bay đến sân bay ở Lucknow và sau đó đi xe đến Savatthi. Cũng tương tự như vậy với việc đi tàu lửa, là sau khi đi đến ga Balrampur, ta sẽ đón xe đến Savatthi. Về đường bộ, Savatthi có các tuyến đường nối trực tiếp với những thành phố lớn của bang Uttar Pradesh như Lucknow và Varanasi.
Về thời điểm chiêm bái, cũng như việc chiêm bái những Phật tích khác, thích hợp nhất là từ tháng 10 đến tháng 3. Những tháng còn lại rơi vào mùa nắng nóng và mùa mưa nên sẽ rất bất tiện cho việc đi lại. Nhiệt độ mùa hè ở đây từ 30°C-43°C; và mùa đông từ 3°C – 25°C

Nguyễn Đăng
Theo Giác Ngộ

Technology