January 19, 2013

Các thắc mắc về đạo Phật

Quyển "Phật tử" của HT. Thích Thiện Châu từ lâu đã trở thành cẩm nang giới thiệu về đức Phật và đạo Phật cho người mới bắt đầu tìm hiểu và học Phật. Trong chuyên mục này, chúng tôi tuần tự trích đăng tác phẩm nêu trên và các tác phẩm khác có cùng nội dung, để giúp người tìm hiểu có cái nhìn bao quát về đạo Phật.

1. Xin lỗi bạn, bạn có thể cho tôi biết qua lý tưởng của bạn?

- Tôi là Phật tử. Tôi tu học theo đạo Phật.

2. Phật tử là gì?

- Phật tử là người tu học theo đạo Phật hay người muốn giác ngộ như Phật. Nói cách khác, người Phật tử là người đi tìm sự thật nơi con người và vũ trụ theo kinh nghiệm của Phật, Bậc Giác ngộ hoàn toàn.

3. Đạo Phật có phải là một tôn giáo không?

- Đạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Đạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý. Nếu cần dùng chữ tôn giáo (Religion) cho dễ hiểu thì có thể nói đạo Phật là một "Tôn giáo không có Thượng đế". Có người bảo đạo Phật là một triết học nhưng phải là một triết học thực tiễn.

4. Làm thế nào để trở thành Phật tử?

- Bạn có thể trở thành Phật tử nếu bạn tự nguyện hướng về giác ngộ, nghĩa là muốn kính thờ Phật làm Thầy, sống theo đạo lý vi diệu, lợi ích của Phật (Dharma) và muốn được sự hướng dẫn của các vị tu hành chơn chánh và hòa hợp với các bạn đồng đạo.

Rõ ràng hơn, Phật tử là người có lý tưởng giác ngộ luôn luôn cốgắng tu hành theo 5 giới sau đây:

1-Không giết hại, nghĩa là tôn trọng sự sống muôn loài.

2 - Không trộm cướp, nghĩa là tôn trọng tài sản của kẻ khác.

3 - Không tà hạnh, nghĩa là tôn trọng hạnh phúc gia đình mình và gia đình người.

4 - Không dối trá, nghĩa là tôn trọng sự thật.

5 - Không uống những thứ làm say loạn, nghĩa là giữ gìn tâm trí bình tĩnhvà sáng suốt.

Năm điều tu học này không những có ý nghĩa trong đời sống cá nhân, gia đình mà còn có ý nghĩa trong cuộc sống tập thể và xã hội.

5. Cho biết vấn đề đức tin trong đạo Phật?

- Niềm tin (saddhâ) của Phật tử khác hẳn "Đức tin" của những người theo các tôn giáo khác. Phật tử luôn luôn sáng suốt trong vấn đề chấp nhận và thực hành đạo Phật.

Phật tử kính thờ Phật với quan niệm Phật là Bậc Giác ngộ hoàn toàn, đầy đủ từ bi, trí tuệ và hùng lực. Đối với Phật tử, tượng Phật không phải là một ngẫu tượng (idole) mà là biểu trưng lý tưởng giác ngộ, hình ảnh Chơn, Thiện, Mỹ. Sự kính lễ tượng Phật của Phật tử khác xa hành động quỳ lụy, sợ sệt trước những hình tượng của tín đồ Đa Thần giáo (polythéisme) hay Nhất Thần giáo (monothéisme).

Phật tử quan niệm đạo lý của Phật là "Ngón tay chỉ mặt trăng"; người tìm đạo phải nương theo ngón tay đạo lý để thấy được mặt trăng chân lý. Họ tìm hiểu chín chắn và phán đoán phân minh những lời dạy của Phật trước khi chấp nhận và áp dụng. Chính Phật khuyến khích họ điều đó. Chủ nghĩa tín điều (dogmatisme) không có trong đạo Phật.

Đối với Tăng Ni, Phật tử không hề xem các vị ấy là những người thay mặt Phật để tha tội hay ban phước. Họ kính trọng vì xem các vị ấy như là gương mẫu đạo hạnh và là người dìu dắt họ trên con đường đạo.

6. Đức Phật là ai?

- Đức Phật (Buddha) là danh từ chung đểchỉ các Bậc Giác ngộ hoàn toàn. Đức Phật mà chúng ta kính thờ vốn là Thái tử Tất Đạt Đa (Siddhattha), con vua Tịnh Phạn (Suddhodana) và hoàng hậu Ma Gia (Mâyâ). Quê hương của Ngài là tiểu bang thuộc dòng họ Thích Ca (Sâkya), về phía Bắc, Ấn Độ mà kinh đô là Ca Tỳ La Vệ (Kapilavat­thu), nằm trên bờ sông Rohini dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, là vùng Terai của nước Nepal ngày nay.

Vua và hoàng hậu đều là những người đức độ, song thường buồn lo vì không có con nối nghiệp. Nhân một ngày lễ lớn, hoàng hậu Ma Gia trai giới trọn ngày và cùng vua phân phát tiền vật cho dân nghèo. Đêm ấy, trong khi an giấc, hoàng hậu mộng thấy con voi trắng sáu ngà, vòi ngậm cành sen trắng từ cao đi xuống, tiến đến gần rồi chui vào bên hông phía tay phải của hoàng hậu. Các nhà đoán mộng danh tiếng đoán rằng hoàng hậu sẽ sanh thái tử xuất chúng. Hoàng gia rất đỗi vui mừng và hoàng hậu thụ thai từ đó.

Thời tiết đến, theo tục lệ hoàng hậu xin vua trở về nhà cha mẹ để sinh. Khi đi ngang qua vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), hoàng hậu dừng chân ngắm xem hoa lá, và trong lúc đưa tay vịn một cành hoa thì hạ sanh thái tử. Hôm ấy là ngày trăng tròn tháng Vesakha (tháng Tư ta) cách đây hơn 2.500 năm.

Tin mừng thái tử ra đời vang khắp bốn phương. Đạo sĩ A-tư-đà (Asita) tìm đến hoàng cung và vào thăm thái tử. Nhìn thấy những tướng tốt nơi thái tử, đạo sĩ vô cùng mừng rỡ, nhưng sau đó lại buồn khóc. Vua rất lo ngại và gạn hỏi nguyên do, thì đạo sĩ thưa:

"Tâu bệ hạ, thái tử là bậc xuất chúng: nếu ở đời sẽ là minh vương (cakkavattin), nếu tu hành sẽ thành Phật. Tôi mừng là vì một đấng giác ngộ đã ra đời. Tôi buồn là vì đã già, tôi sẽ không còn sống cho tới ngày được nghe lời giáo hóa của Ngài".

Hoàng hậu Ma Gia từ trần sau khi thái tử sanh ra được bảy ngày. Em hoàng hậu, bà Ma-ha Ba-xà-ba-đề (mahâpajâpati) nuôi dưỡng thái tử. Thái tử rất thông minh tuấn tú: văn chương, võ nghệ đều tinh thông hơn người. Nhưng thái tử thường tỏ vẻ không vui với cuộc sống chung quanh.

7. Tại sao Thái tử xuất gia tu hành?

Ngay lúc bảy tuổi, một hôm thái tử được đi cùng vua cha ra ngoài đồng để dự lễ khai mùa đầu xuân. Trời nắng, thái tử ngồi dưới gốc cây để xem lễ. Ngoài ruộng, vua cha tay cầm tay cày nạm ngọc, đi sau đôi bò mập mạnh. Lưỡi cày làm vung lên những tảng đất mun. Những con trùng đứt khúc, ướm máu bày ra, đàn chim nhảy bay theo luống đất vừa cày, tranh nhau mổ ăn những con trùng đang quằn quại và tìm nơi ẩn trốn. Qua cảnh tượng ấy, thái tử thấy rõ sự thật cay đắng về cuộc đời và suy ngẫm sâu sắc về nó.

Dự lễ về, như không còn thiết với cảnh sống hoa lệ của hoàng cung, thái tử trở nên trầm tư hơn trước. Vua cha nhớ lại lời đoán của đạo sĩ A-Tư-Đà (Asita), sợ thái tử sẽ xuất gia tu hành nên tìm mọi cách làm cho thái tử khuây khỏa và vui say với cảnh sống vua chúa. Vua xây cho thái tử thêm ba cung điện tráng lệ, thích hợp với ba mùa: hè, mưa và đông và cưới công chúa Da-Du-Đà-La (Yasodharâ) cho thái tử lúc 16 tuổi.

Cung vàng, điện ngọc và tình yêu của vợ hiền vẫn không làm vơi những băn khoăn và thắc mắc về cuộc đời nơi thái tử. Để hiểu rõ cuộc sống của con người, thái tử xin phép vua cha dạo chơi ngoài thành. Lần thứ nhất, thái tử rất ngạc nhiên khi thấy một người già gầy còm, hổn hển, đi từng bước với cây gậy một cách khó nhọc. Lần thứ hai, thái tử thấy người bệnh nằm rên la bên vệ đường. Lần thứ ba, người chết đang được mang ra bãi tha ma để hỏa táng. Ba cảnh tượng ấy làm ngài buồn hơn và suy nghĩ nhiều. Rất nhiều lần thái tử hỏi các giáo sư về nguyên nhân khổ đau và phương pháp diệt đau khổ.

Song những câu trả lời của họ đều đầy thần quyền và thiếu lý lẽ về cuộc đời không thỏa mãn thái tử. Chính trong lần dạo chơi thứ tư, khi thái tử gặp một vị tu hành với phong độ giải thoát, tự tại, thái tử có ý định rời bỏ cuộc sống vua chúa để tìm chân lý.


Trong những ngày miên man với ý nghĩ ra đi, thì thái tử được tin công chúa Da-Du-Đà-La sinh con trai: La Hầu La (Râhula). Tin này làm vững thêm ý chí của thái tử vì từ nay đã có người nối nghiệp thì vua cha sẽ bớt buồn phiền. Lúc này thái tử đã 29 tuổi. Khuya hôm ấy, sau buổi yến tiệc linh đình, nhân lúc quân hầu, thị nữ ngủ say, thái tử cùng với người hầu cận Xa-Nặc (Chandaka) và ngựa Kiền Trắc (Kanthaka) ra đi sau khi lặng lẽ từ biệt vợ con. Sáng ra, khi đến bờ sông Anôma, thái tử xuống ngựa, đổi áo gấm lấy áo thường, dùng gươm cắt tóc, rồi trao ngựa, đồ trang sức cho Xa-Nặc và bảo trở về thưa với vua cha và công chúa về mục đích ra đi của Ngài.


8. Đạo sĩ dòng Thích Ca tìm thầy học đạo và tu đạo như thế nào?

Thái tử Tất Đạt Đa (Siddhattha) sau khi trở thành đạo sĩ dòng Thích Ca (Sâkyamuni) đi lần đến thành Vương Xá (Râjagaha) để tìm thầy học đạo. Sakyamuni gặp được các bậc thầy có tiếng như Arâda Kâla­ma và Udraka Ramaputra. Song các vị này không giải đáp được thắc mắc của Sâkyamuni. Sakyamuni bèn đến Uruvela (gần Bồ đề Đạo Tràng - Buddha-gaya) và tu khổ hạnh với năm anh em Kiều Trần Như hy vọng sẽ được giác ngộ. Sáu năm khổ hạnh chỉ làm cho thân thể tiều tụy, và tinh thần suy kém, Sakyamuni quyết định từ bỏ lối tu ép xác khổhạnh này. Ngài nhận và dùng bát sữa của nàng Sujata dâng cúng. Năm người bạn đồng tu từ giã Sâkyamuni vì nghĩ rằng Sakyamuni đã bị Ma vương cám dỗ. Trong khi đó Sakyamuni đi đến sông Ni Liên Thuyền (Ner­anjara). Tắm rửa song, Ngài hỏi xin người cắt cỏ một bó cỏ đủ làm đệm ngồi và đến thiền định dưới gốc cây Tất bát la (Pipal, bây giờ gọi là Bodhi) với lời nguyện: "Dù cho xương khô, máu cạn, nếu không đạt đạo ta thề không rời khỏi nơi này". Như nguyện, Sakyamuni tập trung tất cả tâm lực đoạn trừ phiền não và phát triển trí tuệ. Vào đêm trăng tròn sáng tháng Vesakha (tháng Tư ta), đoán biết Sakyamuni sắp đắc đạo, Ma vương (Mara) sai thủ hạ đến quấy phá, dụ dỗ. Song tất cả mưu mô quỷ quyệt của Ma vương không thắng được Sakyamuni. Sau khi hàng phục Ma vương, hiện thân của tham lam, giận dữ, si mê, Saky­amuni tiếp tục vận động sức mạnh của tâm trí để thể nhập chân lý. Đầu đêm tâm trí bừng sáng, Sakyamuni chứng được Túc mạng minh - biết rõ dòng sanh mạng biến chuyển từ đời này qua kiếp khác của tất cả chúng sanh; nửa đêm, chứng được Thiên nhãn minh - biết rõ quá trình sanh thành và hoại diệt của sự vật qua qui luật nhân quả - đạo lý Duyên khởi; gần sáng, khi sao Mai vừa mọc chứng được Lậu tận minh - phiền não, nguyên nhân của sống chết lưu chuyển hết sạch (Dn, III, 28). Bấy giờ Sakyamuni, lúc 35 tuổi, thành Bậc Giác ngộ hoàn toàn (Buddha); đương thời gọi là Phật Gotama hay Phật Sakyamuni.

9. Đắc đạo rồi đức Phật có giáo hóa chúng sanh không?

- Sau khi giác ngộ, với lòng từ bi và sự minh xác rằng con người có thể hướng thiện và hướng thượng, Phật đi bộ sang Sarnath (Bénarès) để giáo hóa cho năm người bạn cùng tu khổ hạnh ngày trước. Phật

thần linh hay sứ giả của thần linh. Ngài là một người thức tỉnh (Bồ tát) đã tu hành trong nhiều kiếp và đến đời cuối cùng, với thân người, Ngài đạt đến quả vị giác ngộ hoàn toàn. Có thể nói Ngài là một người nhưng không phải là người thường mà là một "Siêu nhân": người thông đạt chân lý (Như Lai, Tathâgata), Phật là một bậc Thầy:

"Các người hãy tự mình cố gắng,

Như Lai chỉ là người chỉ đường".

(Pháp Cú, 276)

Lời dạy của Phật là ánh sáng, là tình thương rất cần cho chúng ta, những kẻ đang sống trong bóng tối và hận thù. Không có gì quý báu hơn sự ra đời của Phật vì muôn ng­hìn năm mới có một lần.

10. Làm sao biết được đức Phật là bậc giác ngộ giải thoát hoàn toàn?

- Qua đạo phong cao đẹp, lời dạy như thật của Phật được ghi chép trong kinh điển, chúng ta biết rõ Ngài là bậc giác ngộ hoàn toàn. Hành động và lời nói của Phật đượm màu từ, bi, hỷ, xả. Đạo lý của Phật phản ảnh được sự thật nơi con người và vũ trụ. Nếu so sánh Phật với người thường và với các vị giáo

chủ, triết gia khác, chúng ta thấy rõ sự giác ngộ hoàn toàn nơi Phật. Có thể xem Phật là đóa sen trắng:

"Như hoa sen tinh khiết, đáng nhìn,

Sinh từ bùn mà không dính bùn,

Ta không bị ô nhiễm vì cuộc đời, 

Vì thế, này Bàla môn, Ta là Phật".

(An,II,39)

(Còn tiếp)

Sources: Tạp chí Đạo Phật Ngày Nay số thứ 1

0 nhận xét:

Sẻ Chia Yêu Thương

Những tấm gương người tốt việc tốt, những câu chuyện cảm động về tình cảm giữa con người với con người luôn có mặt trong đời sống của mỗi chúng ta. Nếu bạn bắt gặp những câu chuyện ấy, xung quanh mình, hay ngay chính cuộc sống của mình, hãy chia sẻ với Hoa Tâm theo địa chỉ: Hoatam@outlook.com

Technology